Các nguyên tắc cơ bản của phong thủy âm trạch
Phong thủy âm trạch là thuật ngữ bao quát để nói về việc lựa chọn phần đất tốt để an táng tổ tiên, người đã khuất. Khi người đó được an táng ở nơi có vị trí đẹp, phong thủy tốt thì sẽ phù hộ cho gia đình và con cháu đời sau.
Phong thủy âm trạch là thuật ngữ bao quát để nói về việc lựa chọn phần đất tốt để an táng tổ tiên, người đã khuất. Khi người đó được an táng ở nơi có vị trí đẹp, phong thủy tốt thì sẽ phù hộ cho gia đình và con cháu đời sau. Vì vậy phong thủy âm trạch là vấn đề rất quan trọng, hãy cùng tìm hiểu về các nguyên tắc của phong thủy âm trạch với phong thủy nhé!
Các thế đất táng trong phong thủy
Việc lựa chọn âm trạch, đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô. Trong phong thủy gọi núi đến từ xa là “thế” núi ở nơi gần là hình, trước tiên bàn về thế sau mới bàn về hình, hình là do thế quyết định.
Trong Táng thư. Nội thiên có ghi: “Thượng địa chỉ sơn, nhấp nhô liền dải, là đến từ trời. Như sóng nước, như ngựa phi, thế đến như bay, như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống, như đại bàng bổ xuống. như con thú quỳ, vạn vật đều tuân theo”. Ở đây viết “Thượng địa chỉ sơn” là núi nơi mai táng, đặc điểm của nó là: Núi non nhấp nhô trùng điệp, như từ trên trời kéo xuống, như vạn mã phóng bay, hình thành thế lai long, khí thế hùng vĩ”. Thầy phong thủy lại cho rằng: Thế lại long lại uốn lượn uyển chuyển, rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn, cho nên trong Táng thư. Nội thiên lại ghi: “Địa thế nguyên mạch, sơn thế nguyên cốt, uốn lượn Đông Tây hoặc Bắc Nam, ngàn thước là thế, trăm thước là hình. Thế đến hình dừng, nơi toàn khí. Đất toàn khí an táng phù hợp”. Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có “Toàn khí “cho nên có đặc điểm “Đất cao nước sâu, cây cỏ tươi tốt”.
Các nhà phong thủy thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định sự phú quý, vì vậy trong Táng thư. Tạp thiên có ghi: “Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống, táng vương giả. Thế như sóng lớn núi non trùng điệp, táng thiên thừa. Thế như giáng long nước vòng mây lượn, táng tước lộc tam công. Thế như nhà cửa san sát, cây cỏ xanh tươi, tăng khai phủ kiến quốc…”. Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và thứ bậc phú quý, trong đó có nói đến núi non trùng điệp, nước vòng mây lượn, cây cỏ xanh tươi., rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ. Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của tự nhiên, tìm kiếm môi trường tăng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại.
Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi. Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ, cho nên mới gọi là “Lai long thiên lý”, ý nói là huyệt vị phong thủy thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch, chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng. Như vậy rồng mới có khí thế, huyệt cũng mới có sinh khí. Trong phong thủy lấy quan hệ “Tổ tông “để biểu thị giữa can long (rồng chính) và chỉ long (rồng nhánh). Địa lý giản minh có ghi: “Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn, gọi là Thái tổ; từ đó mà xuống, lại có đỉnh cao, gọi là Thái tông; thế núi quanh co uốn khúc, lại có đỉnh cao, gọi là Thiếu tổ. Từ đây núi Thiếu tổ đi xuống, và cao có thấp, nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh Huyền và gọi là Phụ mẫu”. Vì vậy, khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của Thái tổ, Thái tông, Thiếu tổ. Thiếu tông. Phụ mẫu, sau đó mới trên cơ sở núi Phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục để tìm nơi tồn tại của sinh khí, tức là tìm huyệt.
Hướng long mạch đến được che chắn từ xa đến gần
Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa, nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một được thẳng, mà phải có lớp lớp che chắn, có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch. Đúng như trong Táng thư đã ghi: “Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống, hình dáng như có lớp lang, nhà phong thủy phái Hình pháp cho rằng, núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô độc, che chắn càng nhiều càng cát tường, vì vậy Địa học giản minh. Long khai chương đã nói một cách tổng quát: “Long như mở đường mà đi, là có lực nhất, kim thủy mão là trên, thủy tinh là thứ, phải có hình dáng như tấm che chắn, được như vậy mới tốt”.
Phân chia đất táng theo Ngũ thế
Các nhà phong thủy cho rằng, hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại tức “ngũ thế – chính thế, trắc thế, nghịch thế, thuận thế, hồi thể”, cụ thể biểu hiện là: “Long Bắc phát triều Nam đến là chính thể. Long Tây phát Bắc làm huyệt, Nam làm triều, là trắc thế. Long nghịch thủy thượng triều, thuận thủy hạ thủ là nghịch thế. Thân long quay về núi tổ làm triều, là hồi thể”. Hiển nhiên, đây là cách chia của phái Hình pháp, lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá sự đẹp xấu của môi trường âm trạch, trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm. Phái Lý khí khi bàn về hình thế, chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị.
Các nhà phong thủy căn cứ Ngũ tinh ở trên trời đối ứng với Ngũ hành của núi sông, cho rằng hình núi trên đất, dốc thuộc Mộc, nhọn thuộc Hỏa, vuông thuộc Thổ, tròn thuộc Kim, dài thuộc Thủy. Lại dành lý luận tương sinh tương hợp của Ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng tăng khác nhau.
Hướng Đông thuộc Mộc long, hướng Nam thuộc Hoa long, hướng Tây thuộc Kim long, hướng Bắc thuộc Thủy long, gọi là tứ cục. Lại theo phép tăng giảm của âm dương, bốn loại long cục đều có phân âm dương, bắt đầu là Âm long, thịnh là Dương long..
Hình dáng huyệt đa dạng
Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn, về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng. Phạm vi của huyệt trong phong thủy rất nhỏ thường gọi là “Huyệt tám thước”, là một miếng đất tấc vuông “Thừa sinh khí, trú tử cốc”, vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn, vì vậy trong ca dao cổ có câu: “Nhìn thế tìm long dễ, muốn biết huyệt điểm khó”.
Các sách như Táng thư và Địa học giản minh đều cho rằng, nơi kết huyệt có liên quan với khí. Trong Địa học giản minh đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch, trong sách ghi: “Một tiết tỉnh phía sau đỉnh Huyền vũ gọi là Phụ mẫu, dưới Phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai, giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy. Luồng khí phía dưới đó là tức vậy, lại bắt đầu từ đỉnh Huyền vũ tinh diện là dựng, giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy, nơi dung kết huyệt là dục, giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy”. Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con, cũng là khu vực âm dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới. Nghĩa là đã xem huyệt phong thủy là nữ âm, là nơi “Lấy được khí ra, thu được khí đến”, là nơi nhận được sự thai nghén, là nơi “ém khí”, “dưỡng tức”. Đồng thời cũng là nơi “sinh dục”, “xuất thai”.
Chính vì phong thủy cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thủy, đã làm cho huyệt phong thủy lấy tượng trưng là nữ âm, huyệt phong thủy được xem như là đất toàn khí, vì vậy con người khi lựa chọn đất ở, đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất, điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài, đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt.
Phong thủy đặc biệt nhấn mạnh: “Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ, lại có toàn khí dung kết.”. Huyệt hình của huyệt phong thủy thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ, vì vậy chia ra làm on huyệt, kiểm huyệt, nhũ huyệt, đột huyệt.
Oa huyệt, theo như trong Táng thư là hình giống như tổ chim yến, chôn ở nơi lõm xuống, thường gặp ở nơi núi cao.
Kiềm huyệt, hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm, còn gọi là khai cước huyệt, ở núi cao bình địa.
Nhũ huyệt, huyệt tinh mở ra, ở giữa có nhũ, còn gọi là Huyền và huyệt, hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt, ở bình địa núi cao.
Đột huyệt, tỉnh huyệt bằng, ở giữa nổi lên, còn gọi là bào huyệt. Theo Tảng thư có hình nổi úp, đỉnh có nhiều kiểu, thường gặp ở bình địa.
Núi bao nước vòng, bốn mặt vây bọc
Môi trường âm trạch tốt hay xấu, ngoài long thế long cách, che chắn huyệt trưởng như trên đã nói, còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không, tức là có cấu thành một môi trường nhỏ hòa hợp nhất trí không.
Thông thường cho rằng: “Nơi có chính huyệt, núi phải trẻ, hướng trước mặt phải mở rộng, hình thế bốn bên phải chụm, gió phải kín, nước phải tụ… Sơn minh thủy tú phải mưa thuận gió hoà, đất trời sáng sủa, như một thế giới khác, thanh tịnh trong ồn ào, phồn hoa trong thanh tịnh, trông càng muốn nhìn, đến gần thấy lòng vui tươi, khí phải tích, tinh phải tụ”.
Đây là một đoạn văn nói về phương diện phong thủy mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh. Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như “Sơn minh thủy tú”, “Mưa thuận gió hòa”, “Thanh tịnh trong ồn ào”, “Đến gần thấy lòng vui tươi”, đều là ý tưởng tìm kiếm cảnh đẹp thiên nhiên.
“Núi bao nước vòng” trong phong thủy, chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thủy. Về quan hệ giữa sơn và thủy, các nhà triết học xưa đã bàn đến từ lâu. Trong Chu lễ. Khảo công ký đã chỉ ra: “Địa thế của thiên hạ, giữa hai núi nhất định phải có sông. Bên sông lớn nhất định phải có đường đi”, cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau. Trong Quản thị địa lý chỉ mông cũng có ghi: “Nước đi theo núi, núi ngăn nước. Núi sông phân chia các khu vực, ngăn không cho vượt quá, tích tụ khí. Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung núi không nước thì khí hàn. Núi như nhà, nước như tường, ở nhà cao không có tưởng, không thể phòng vệ được. Núi là thực khí. Đất càng ch khí càng dày. Nước càng sâu khí càng lớn”. Có thể thấy rằng, sơn và thủy dựa vào nhau để tồn tại, sơn là nội khí, thủy là ngoại khí, mỗ ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, mới có thể làm cho môi trường có sinh khí, mới có thể đạt được “Sơn minh thủy tú”, “Mưa thuận gió hòa”. Về môi trường sơn thủy xung quanh huyệt trưởng thông thường được hợp thành được các địa hình như sa, thủy triều, án. Trong đó sa, triều, án đều là núi ở xung quanh huyệt. Địa học của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau: “Thủy nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển, sa và thủy nguyên là một nhà. Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ. Thanh long là tên gọi cánh bên trái phía còn lại là Bạch hổ, bất kể Thanh long hay Bạch hổ, chỉ cần nước giữ được khí. Giữa long hổ là minh đường, minh đường giống như ngực con người. Phía trước long hổ có án, án phải thấp bằng để có nhìn được xa, nước chảy ngang bên trong gọi là trung đường, ngoài án phải có triều sơn, giống như chủ nghiêng mình đón khách”. Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là:
Sa thủy đồng hành với nhau.
Thanh long, Bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải.
Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án, ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều (có nghĩa là triều bái).
Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thủy khẩu, hai bên thủy khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thủy khẩu sa. “Núi của thủy khẩu phải cao và lớn, vòng mà khép lại, hình thế như vậy mới tốt”. Nước chảy ra phải chậm rãi uốn lượn, không được chảy nhanh, nếu không sẽ tổn sinh khí. Vì vậy tại thủy khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt. Hám long kinh có ghi: “Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở đó”. Thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập, yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh, nước chảy vòng vèo, lớp lớp khóa chặt, có cảm giác như lớp lớp che chắn.
Sự phân hợp của sơn thủy tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng, kết hợp với sa, triều, án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt.