Ngày: 22/10/2024
Giờ:
0

Mối quan hệ giữa khí và long mạch

phongthuy.vn
27/09/2024

Phong thủy không xa rời được khí và đặc biệt là trong phong thủy âm trạch. Khí có liên quan mật thiết với long mạch trong việc lựa chọn đất táng.

Phong thủy không xa rời được khí và đặc biệt là trong phong thủy âm trạch. Khí có liên quan mật thiết với long mạch trong việc lựa chọn đất táng. Trong bài viết này, phongthuy.vn sẽ cung cấp cho bạn thêm nhiều thông tin chi tiết để giúp bạn hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa khí và long mạch.

Giới hạn của sinh khí long mạch

Vị trí long mạch kết huyệt không thể có sai sót, nơi sinh khí hội tạ phương pháp một cách biến hóa nhưng đối với việc xác định giới hạn ở thì sẽ có sự khác biệt trong ngoài. Phân biệt các phương vị thì cần dùng của sinh khí thì không được phép có sai sót.

Điều này là nói đến việc dựa vào sinh khí, loại bỏ cái giả giữ lại cá thật, ngưng kết sinh khí để tương thông với quan tài, là phương phản bảo vệ hài cốt. Câu trên nói tới sự ngưng tụ của sinh khí trong huyệt táng, hoặc là có hình thế “Oa kiềm nhũ đột” hoặc là các hình thái kỳ hoặc do sinh khí trong núi kết tụ lại theo hướng chính diện; hoặc là nhờ vào ngọn núi khác vượt qua quan ải mà kết tụ lại. Đây đều là những nơi có phương vị huyệt táng không thể thay đổi. Tuy nhiên việc thụ n sinh khí lại không giống nhau, sự vận hành của long mạch có sự khác biệt về ngang dọc thuận nghịch, có cái cách nhau một cung vị, cũng có cái cách nhau mấy cung vị, phương vị này hoặc là ở trong lòng núi, hoạt ở lưng chừng núi, bên trong ẩn tàng sinh khí, bên ngoài nối tiếp với khi của minh đường, không thể cứ câu nệ vào một loại phương thức.

Người xưa nghĩ cách để cải tạo hình núi chính là có mục đích như thế, nếu dùng sao quẻ để phán đoán, đồng thời căn cứ tình hình tinh khí (khí của sao) để thay đổi cách đặt huyệt táng tất sẽ sinh ra sai lầm. Giới hạn của sinh khí là căn cứ vào nơi sinh khí đến, ví dụ như long mạch đến từ phương Cấn, phương vị Mậu Dần là nơi có sinh khí chân chính, Mậu Dần thuộc Thổ là nơi sinh ra sinh khí, đặt huyệt táng ở đây thì có thể sinh vượng, không cần tiến hành sửa đổi. Nếu như Bính Dần là chính khí thì thuộc Hỏa, trái lại sinh ra Cấn Thổ làm tiết khí của Hỏa, có thể khiến sinh khí suy nhược. Nếu huyệt táng nằm tại phương vị Giáp, triều hướng phương Canh tức sẽ nằm trên đường ranh giới của của phương vị Cách Dần, Canh Dần thuộc Mộc, có thể sinh Bính Dần Hỏa, có lợi cho việc sinh vượng. 24 sơn làm phương vị Phụ mẫu, 60 long vị tạo là phương vị Thế tức, Thai tức nếu như có thể sinh ra cha mẹ thì có thể tiết ra sinh khí cho nên sinh khí đến từ hướng Bính Dần, đến phương vị Cấn thì sức mạnh sẽ suy giảm, cho nên giới hạn giữa tọa sơn có thể phát sinh sự biến hóa mà không có cách cục nhất định. Nếu như giới hạn của sinh khí không thể biến động thì có thể xác định được nơi sinh khí đến mà không thể thay đổi. 

Trong giới hạn được phân ra trong huyệt táng, sinh khí nếu vượt qua phương vị Quý Sửu, ở vào phương vị Tam Sửu mà không phải ở vào phương vị Cấn, do đó quyết không có sự sai lệch. Sau khi xác định được giới hạn của sinh khí thì cần xác định giới hạn của tọa sơn, giới hạn của tọa sơn đã xác định được thì nên tiến hành phân định giới hạn của tạp khí. Ví dụ như long mạch tới từ phương Cấn, phần đầu có mang theo một bộ phận sinh khí đến từ phương Dần, vậy nên xác định giới hạn từ phương Dần, nếu núi nằm ở phương vị Giáp mà triều hướng phương Canh thì nên tiến hành phân định giới hạn ở hướng Canh. Đối với nơi giới hạn của sinh khí với tọa sơn giao nhau bên phải chính là nơi sinh khí hội tụ, nên ở nơi sinh khí hội tụ thì nên khảo sát sinh khí của phương Dần. Nếu như có sinh khí hướng Dần tiến nhập thì nên tránh. Nếu như long mạch gấp gáp thì nên lùi một bước về phía sau để tránh; long mạch mà êm dịu thì nên tiến về phía trước một bước. Như thế sinh khí phương Cấn có thể thông suốt với quan tài mà không có sự hỗn tạp. Đây chính là chỗ tinh tế, tỉ mỉ, không được có sai sót, chìa khóa để dựa vào sinh khí cũng nằm ở đây.

Tránh sát khí trong huyệt táng

Muốn dựa vào sinh khí cần phải tránh sát khí nằm ở giữa huyệt tăng, cho nên quan tài nên chiếu theo tỉ lệ ba – bảy mà tiến hành đặt. Phân định phương vị nên lấy việc dựa vào vượng khí làm chủ, cho nên tiến hành xác định phương hướng trên phân giới 3 – 7.

Ở đây nói đến giới hạn của sinh khí và tọa hướng nên tránh sát khí. Trong trời đất, nếu gặp phải sát khí thì sẽ dần dần suy vong, cho nên trên la bàn, Mậu Tý, Kỷ Sửu là phương vị Không vong, tại phương vị của nó là nơi trung khí được chia làm năm mà biến thành không có sinh khí. Chính như trong Thôi quan thiên nhắc tới, long mạch tới từ phương Hợi đi đến hướng Nhâm, triều hướng phương Bính thì giống như long mạch hướng Càn, cẩn thận tiến nhập vào phương vị Tỵ Hợi; ở phương Càn mà triều hướng phương Tốn, long mạch ở vào hướng Quý Hợi, Hợi chiếm bảy phần, Nhâm chiếm ba phần. Sang trái hoặc sang phải quá ba phần thì đến phương vị Bính Đinh Canh Tân mà không đến mức ở vào trung điểm của đường giao giới của tạp khí Mậu Kỷ và hai bên trái phải Nếu như tiến hành phân định phương vị Bính Đinh Canh Tân, thủ đô chính là phương vị ban đầu của âm dương, ở phương vị Đoài Cấn Chấn Tốn có thể có được quẻ khí sự giao hợp của âm dương mà sinh ra vượng. 

Cho nên, nếu muốn dựa vào sinh khí thì cần tiến hành phân biệt trên phương vị Bính Đinh Canh Tân, cũng không được phạm vào sắt khí ở trung gian, như thế mới không cần lo tới hung tướng và tai họa trong đó.

Khí thẳng mà quan tài nghiêng cũng có thể nạp khí

Long mạch uốn khúc nhưng sinh khí thì không, vì sao phải sơ đường đi của khí, gió hay nước thẳng một mạch? Sinh khí không thể nghiêng lệch nhưng quan tài có thể lệch, như thế mới có thể khiến cho sinh khí thông suốt mà thu nạp vào trong huyệt táng.

Ý trên thực đối ứng với phương pháp thu nạp sinh khí trong Thái quan thiên. Trong Thôi quan thiên có nói: “Xích xà đầu hướng Thiên môn Bắc, trực lai trực hướng thần công liệt. Tốn Bính thụ hướng tới vị lương, phú quý vinh hoa nhân anh kiệt” là cho rằng nếu long mạch đi thẳng một mạch thì sẽ khiến cho sinh khí trực xung vào phần đầu của huyệt tăng mà tản đi. Nếu như bên trái nghiêng sang phương Tốn, bên phải nghiêng sang phương Bính thì khí không thể trực xung phần đầu. Xem xét về phương hướng mà long mạch tới, nếu uốn khúc giống như rắn bò thì là sản sinh âm khí, cũng có thể thông qua phép Ai gia tiến hành cải thiện. Cho nên nói, long mạch uốn khúc mà sinh khí thì không uốn khúc sẽ không sản sinh ra tai họa. Nếu như hình thế long mạch đi đến thẳng tắp và cứng nhắc thì có thể dùng các phương pháp Liêu sơn, Phách thế ỷ gia và Sáp niêm (vén núi, tách thế, dựa theo, sát nhập) để cải thiện. 

Trong đó cũng có nói tới: “Bối nhất diện cửu thừa thiên bổ, khí tòng hữu nhĩ vi hợp củ. Huyệt nghi ai tả gia Thiên hoàng, phú quý vinh hoa Chấn hương thổ” nghĩa là, long mạch tới từ phương Nhâm ở vào phương Tý mà triều hướng phương Ngọ, thu được sinh khí của phương vị Bính Tý và Nhâm, từ bên phải mà thông suốt với táng địa là hợp với nguyên tắc, cần đem quan tài đặt ở Giáp Tý nhưng nghiêng lệch v phương Nhâm bảy phần, lệch về hướng Hợi ba phần, để khiến chính khi của Bính Tý từ bên trái bổ trợ cho huyệt táng. Lệch về hướng Nhâm bảy phần là khiến cho sinh khí tới từ hướng Nhâm thông suốt với địa táng, chính khí cũng có thể phát huy được tác dụng vốn có của nó. Đây chính là phương pháp đặt quan tài lệch mà thu được sinh khí thẳng. Thông suốt tức là sinh khí đến từ một phương vị cố định mà phương vị của quan tài thì có thể biến động xê dịch về bên trái phải, đây cũng là một phương pháp linh hoạt trong việc vận dụng, dựa vào sinh khí.

Phương vị của huyệt địa và dòng chảy là cực kỳ quan trọng

Đối với long mạch nên lấy đường vận hành làm phương diện chủ yếu, với huyệt táng nên lấy tọa hướng làm chìa khóa. Dòng nước cũng cần thông qua phương vị để xác định, phương vị thì phải căn cứ vào cách cục để phân biệt.

Ở đây muốn nói, thế nước và huyệt địa đều cần lấy phương vị làm chủ. Muốn khảo sát sinh khí không thể không phân biệt phương vị. Đối với phương pháp an táng thông thường, đều cần dựa vào sinh khí, mà sinh khí thì phải tồn tại trong long mạch, muốn phát hiện tung tích của long mạch cần thông qua Chính ngũ hành để xác định, không có phương pháp nào khác. Nếu như là xác định tọa hướng của huyệt táng, bên trong thì cần dựa theo long mạch, bên ngoài thì cần dựa vào sự phối hợp với thế nước, phương pháp có rất nhiều cần tỉ mỉ xem xét. 

Ví dụ như dòng nước khởi nguồn từ phương Hợi, theo phương Dần Cấn mà đến, theo hướng Tuất Càn mà chảy đi. Nếu như chiếu theo Song sơn Ngũ hành để phán đoán thì nó thuộc Mộc, có thể phá hoại phương vị Thai Dưỡng; chiếu theo Chính ngũ hành để phán đoán thì nó thuộc Thủy, có thể phá hoại phương vị Quan đới, đều không hợp với quy tắc. Cần triều hướng Bính Đinh để có thể hóa giải Thủy sát. Nếu chiếu theo cách nói của Huyền không ngũ hành, tức phương vị Bính Đinh thuộc Hỏa, mộ huyệt đặt tại phương Tuất thì có thể có lợi cho việc thu nạp vượng Thủy của phương Dần Cấn, nhờ đó mà đạt được phúc đức. Dòng nước có chỗ ngừng chỗ chảy, đều là căn cứ vào sức người mà nên, nếu như căn cứ vào triều hướng núi để cải tạo phương hướng thì đây chính là cách cục sinh thành, không phải là việc sức người có thể hoàn thành. Cho nên cổ nhân xác định phương vị, căn bản là tập trung vào chính thể, ở đây cần dùng phương pháp Song sơn ngũ hành để xác định.

Ví dụ như, long mạch sinh ra ở phương Mão đi qua phương vị Dần Cấn, dòng nước có nguồn từ phương Bính chảy qua phương vị Tốn Tỵ đều có thể hình thành Hỏa cục, cần phải đem chúng dẫn vào phương vị Tân. Phương vị Mão thuộc Mộc, long Mộc gặp phải Hỏa cục có thể bị tiết xuất, nếu như triều hướng phương Tân thì là tương hợp với Thủy, có thể hóa giải Hỏa. Đây cũng chính là một phương pháp dựa vào sinh khi để hóa giải sát khí. Người xưa nói: Không có dòng chảy nào cùng tuyệt, chỉ có phương vị ngừng đứt. Thế cục của sơn thủy đã hình thành, không có chỗ không thể an táng, nếu như không phù hợp với thế nước tất có thể dời lên phía trên để hóa giải. 

Từ xưa đến nay, có rất nhiều phương pháp xác định phương vị, hóa giải Thủy sát đều là để khiến cho con người thể phù hợp với hình thế của núi sông, không đến mức sai nghịch mà sản sinh ra hình tướng suy bại. Cho nên không phải phương pháp nào cũng phải đem ra sử dụng, chỉ cần chọn một loại thích hợp là có thể có được phúc đức. Một số thầy phong thủy cho rằng phương pháp họ dùng chính là một loại thủy pháp và coi phương pháp ấy là tuyệt đối chính xác. Nhưng tình thế sơn thủy biến hóa muôn vàn, nếu như không khăng giữ lấy một phương pháp nhắm mắt mà phán, thế lẽ nào chẳng thiếu căn cứ lắm sao?

Nhận biết tứ sinh, tứ tuyệt, tam hợp, song kim

Khảo sát đường đến của long mạch cần xem bốn phương vị sinh vượng, quan sát tọa hướng của long mạch cần xem bốn phương vị suy tuyệt. Với các cách cục của địa táng cần xem phương vị tam hợp, đối với tọa hướng, cần khảo sát phương vị khí kim tương hợp.

Các nhà phong thủy sử dụng Ngũ hành để phân định sinh khí, để thu nạp thế núi, trừ bỏ sát khí. Làm thế nào để thông qua bốn phương vị sinh vượng để khảo sát đường đến của long mạch? Người xưa cho rằng, trên mặt đất có bốn loại địa thế. Ví dụ như Thủy Thổ long từ phương vị Khôn Thân Canh Đoài mà tới đến phương vị Nhâm Hợi thì tụ kết thành huyệt táng, chính là bắt đầu từ phương vị Sinh, ngừng lại ở phương vị Vượng, đây cũng chính là lợi dụng long mạch sinh vượng, rất có lợi cho gia trạch, phúc đức. Nếu như Thủy Thổ long từ phương Đông mà tới, thì có thể hình thành nên cách cục tương khắc, mà sinh khí bị tiết hao mất như thế có thể khiến cho gia tộc suy vong. Nếu như thông qua Chính ngũ hành để phán đoán long mạch, có thể rút ra được những kết luận trên.

Làm thế nào thông qua bốn phương vị suy bại để khảo sát tọa hướng của thế núi? Ví dụ như long tới từ phương vị Cấn, đi đến phương Nhâm, triều hướng phương Bính, dòng nước từ phương Càn Hội chảy ra, thuộc về tính Hỏa, thuộc về phương vị Tuyệt thai, phương vị này đại biểu cho sao Lộc tồn, đây chính là cái gọi là Tử Lộc tồn, nơi cuối cùng của dòng chảy tất phú quý. Đại khái là bởi vì phương vị này là phương Nhâm, Dần Cấn là phương vị Hỏa sinh trưởng, Hỏa lại ở vào Hỏa địa, thế gọi là được vị. Hoặc là bởi vì dòng nước từ phương Dần Giáp mà tới, thì có lợi cho phương vị Sinh dưỡng, đối ứng với phương sở tại của sao Tham lang, có lợi cho con trưởng trong nhà. Hoặc như dòng nước chảy từ phương Bính Ngọ đến thì thuộc về phương vị Quan vượng, đại diện cho sao Vũ khúc, có lợi cho con thứ. Hoặc dòng nước chảy đến từ hướng Đinh Mùi, phương vị Suy vong đối ứng với sao Cự môn có lợi cho con út. Nếu như có thể phối hợp với ba phương vị cát tường này thì suy vong tử khí đi ra từ phương Càn Hợi có thể biến thành quan lộc vượng khí, ba anh em đồng thời phát đạt, đây cũng chính là nơi có lợi cho việc phú quý trường cửu. Nếu như dòng nước chảy ra từ phương vị Càn mà gặp núi phương Quý triều hướng hướng Đinh trở thành Thổ long vị nằm ở phương vị Thổ, vậy thì phương vị Càn Hợi sẽ biến thành phương vị Lâm quan, nếu như dòng nước xung phá phương vị này thì con thứ sẽ suy bại. Tác dụng của loại phương vị này không thể xem nhẹ.

Người nay chỉ xác định phương hướng mà không xem xét tình hình bên dưới của phương vị, do vậy hay mắc phải sai lầm. Đối với tình hình bên dưới huyệt táng, cần dùng Hồng phạm ngũ hành để tiến hành phân biệt. Trong sách Minh chỉ của Đổng Thị cũng dùng phương pháp này để phân biệt long mạch. Khảo sát long mạch thông thường dùng Chính ngũ hành, nhưng tham chiếu so sánh với Hồng phạm ngũ hành cũng là phù hợp với nguyên tắc phong thủy.

Trong huyệt táng, làm thế nào để khảo sát cách cục tam hợp? Ví dụ như long mạch tới từ phương Hợi, dòng nước chảy từ phương Mão Giáp đến, tới phương vị Khôn Mùi thì chảy ra, thì hình thành cách cục tam hợp Hợi Mão Mùi, đây là một cách cục thuộc Mộc. Long mạch tới từ phương Hợi, đến phương Canh thì kết huyệt, dòng nước ở đó chảy tới phương Mão, đến từ phương vị Khôn Mùi thì long mạch và thế nước đều biểu thị cách cục thuộc Mộc, là tương hợp, có thể lợi cho sinh vượng.

Khảo sát cách cục của huyệt táng cần sử dụng Song sơn Ngũ hành. Làm Thìn Tuất Sửu Mùi chính là bốn phương vị thuộc về Kim, cung Sửu đại thế nào để khảo sát phương vị khí kim tương hợp trong thiên tượng biểu Kim ngưu, gọi là âm Kim sát khí. Triều hướng phương Khôn, trong Huyền không ngũ hành Khôn cũng thuộc Mộc, cũng ở tại phương vị Sửu, Sửu là một phương vị Kim, Khôn cũng là một phương vị Kim, hai cái với long mạch triều hướng huyệt mộ thì có thể hình thành nên song Kim sát khí. Nếu như xung phạm vào đó có thể khiến cho gia đình tổn hại nhân đỉnh, cho nên ở chỗ này cần có quý khí sinh phát mới có thể khiến cho nhân dinh không đến nỗi bị tổn thương. 

Ở bên trái cung Sửu là phương vị Cấn, bên phải là Quý, đều thuộc vào cung Sửu, nếu như Cấn chiếm bảy phần mà Sửu chiếm ba phần thì sẽ không thể coi là thuộc cung Sửu. Nếu như Cấn và Sửu bằng nhau thì sẽ hình thành âm Kim xâm phạm nhau, đều không thể triều hướng phương Khôn, đối với phương Quý cũng vậy. Các phương vị Càn Khôn Mão Ngọ đều thuộc về phương vị của Kim, long mạch tới từ phương vị Sửu Cấn, triều hướng bốn phương hướng này đều có thể hình thành nên cách cục song Kim.

Nếu như mộ huyệt đặt ở đây thì thuộc vào trong khí Kim của sao Phá quân, đối với các long mạch khác cũng cùng chung đạo lý này. Thông qua Huyền không Ngũ hành để thu nạp thế núi và trừ bỏ sát khí, chính là phải vận dụng phương pháp này. Nếu như thế núi ở tại âm vị triều hướng phương âm, dương vị triều hướng phương dương, âm dương không va chạm xung đột thì có thể tránh được tai họa, nếu như ở phương Sửu mà triều hướng Khôn thì hình thành thế đến từ phương dương vị, xung khắc âm vị, tai họa có thể tới rất nhanh. Cái trật tự hỗn loạn trong Ngũ hành, người ngày nay đều không biết vận dụng, nhưng thực ra các phương pháp của người xưa đều chỉ từ một nguồn gốc, nếu như có thể kết hợp sử dụng thì không thể hiểu sai ý của người xưa Trong Hồng phạm Ngũ hành, núi hướng Sửu triều hướng Mùi thì tại hướng của núi thuộc Thổ, phương vị Khôn Thân là phương vị đại diện cho Trường sinh, phương vị Nhâm Hợi là phương vị đại diện cho Sinh vượng. Tý Quý là phương vị Suy vong. Cho nên người xưa từng nói “Sửu sơn cao Mùi chảy thao thao, Nhâm Hợi cùng ấp huyệt kiên lao, Bính Tỵ xuất khẩu sản hiền hào” (sơn Sửu từ trên cao hạ xuống, hướng Mùi có dòng nước chảy, hai phương vị Nhâm Hợi bao bọc xung quanh thi huyệt táng vô cùng kiên cố, phương vị Bánh Tỵ có lợi cho trong nhà xuất hiện người hiền đức hoặc phú quý). Dưỡng sinh ở vào phương vị của sao Tham lang, đối ứng với con trưởng; Quan, vượng ở vào phương vị sao Vũ khúc, đối ứng với con thứ; Suy vong ở vào phương vị sao Cự môn, đối ứng với con út. 

Nếu như phương vị Trường sinh gặp phải tổn thương thì không có lợi cho con trưởng; dòng nước từ phương Trường sinh tới thì có lợi cho con trưởng. Dòng nước từ phương vị Quan vượng và Suy vong đối ứng với con thử và con út cũng có quan hệ tương tự như vậy. Long mạch và thế nước đều nên tới từ phương vị sinh vượng. Từ bên ngoài theo Nạp giáp mà suy luận Bát quái Ngũ hành, còn có Ngũ hành của Hỗn thiên quái hào, dùng dẫn ra phương vị sao sinh ra sát khí, thông qua hai phương pháp này có thể tiến hành suy đoán về cha mẹ, con cháu, vợ, tài năng, cung, quỷ. Đây đều là điểm quan trọng trong phương pháp Ngũ hành.

Chia sẻ:

Liên Hệ Với Chúng Tôi

    Họ và tên của bạn

    Số điện thoại

    Email

    Lời nhắn

    Bài Viết Liên Quan

    Tìm hiểu về hướng của thủy thần phụ thuộc vào sự tương sinh tương khắc của Ngũ hành

    Đặt huyệt mộ cho người đã khuất là việc cực kỳ quan trọng, cần phải xem xét kỹ hướng của thủy thần chạy qua, ảnh hưởng đến huyệt mộ như

    phongthuy.vn 27/09/2024

    Tìm hiểu về các hình thế phức tạp của núi của sông

    Lựa chọn vị trí đặt huyệt mộ là điều rất quan trọng, người xưa thường dựa vào thế núi, thế nước để xác định vị trí. Tuy nhiên điều này

    phongthuy.vn 27/09/2024

    Tìm hiểu về quý khí của dòng chảy đối với huyệt mộ

    Người xưa khi xác định vị trí đặt huyệt vị thì điều quan trọng nhất cần quan tâm chính là hướng dòng chảy và quý khí của dòng chảy đó

    phongthuy.vn 27/09/2024

    Cách xác định phương vị tốt xấu của sa thủy

    Khi tiến hành tìm vị trí, phương vị để đặt huyệt táng, bên cạnh việc xác định long mạch của núi và nước thì còn một nhân tố nữa cũng

    phongthuy.vn 27/09/2024

    Phương pháp nhìn thủy để xác định triều hướng tốt xấu của huyệt mộ

    Mộ phần của người đã khuất có ảnh hưởng tốt xấu đến cuộc sống của con cháu, của gia đình người thân còn ở lại thì chắc nhiều người đã

    phongthuy.vn 27/09/2024

    Hướng dẫn cách xem hình trạng và phương vị của sa tại vị trí đặt mộ

    Khi chôn cất người đã khuất, việc lựa chọn vị trí và hướng đặt quan tài là vô cùng quan trọng. Trong đó cũng phải để tâm đến phương vị

    phongthuy.vn 27/09/2024