Quái cung và cách sắp xếp sao, Ngũ hành phong thủy
Quái cung là thuật ngữ quan trọng trong phong thủy ẩn chứa nhiều bí mật đã được áp dụng trong nhiều môn lý học, giải thích nhiều vấn đề đời sống của Trung Hoa từ ngàn năm nay.
Quái cung là thuật ngữ quan trọng trong phong thủy ẩn chứa nhiều bí mật đã được áp dụng trong nhiều môn lý học, giải thích nhiều vấn đề đời sống của Trung Hoa từ ngàn năm nay. Bài viết dưới đây, hãy cùng phongthuy.vn tìm hiểu về quái cung và cách sắp xếp sao và Ngũ hành trong phong thủy nhé!
8 cung trong phong thủy và cách sắp xếp các sao
Các cung chủ về cát lợi
Trong tám cung của 24 sơn chỉ có các sao Tham lang, Cự môn, Vũ khúc, Tả phù là cát lợi nhất. Còn những vị trí khác đều nằm vào huyệt vị xấu, nếu mai táng ở những nơi như thế con cháu có thể gặp phải nhiều khó khăn.
Khi muốn tìm hiểu về khí vận của một năm có thể căn cứ vào vị trí các sao cũng như dựa theo sự thay đổi của Ngũ hành mà xác định được hai mươi tư vị trí của long mạch. Trong các sao chính như Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân, Tả phù có các sao Cự môn, Tham lang, Vũ khúc, Tả phù là cát lợi nhất, các sao khác đều ở vị trí xấu. Cũng như tám cung vị của khí vận con người trong một năm, chỉ có bốn cung là Tham lang, Cự môn, Vũ khúc, Tả phù có thể là nơi chôn cất được, còn bốn phương vị kia đều nằm ở vị trí dẫn đến suy kiệt, không thể xây mộ phần. Phương pháp này tuy có điểm giống với việc căn cứ vào phương vị của Càn Khôn và sự biến hóa thuận nghịch của âm dương để xác định vị trí của mộ huyệt nhưng cho cùng nó đều có mối quan hệ thuận hòa với vượng khí tại vị trí bản quái. Vị trí này là nơi tụ của dòng nước, cho nên nó sẽ bồi đắp thêm cho bản quái phụ mẫu, mà sự ứng hiện của nó phù hợp với hình trạng của long mạch chân chính.
Nội quái chủ phú quý, ngoại quái chủ suy bại
Trong một quẻ có sáu hào, ba hào trên gọi là ngoại quái, ba hào dưới gọi là nội quái. Chỉ có cách phán đoán căn cứ vào phân bố sao là giá trị bởi trong đó ẩn hàm sự thần bí, linh thiêng của trời cao. Nếu như thiên cơ nằm ở nội quái sẽ khiến gia đình giàu sang phú quý, nếu nằm ở ngoại quái sẽ khiến gia tộc suy kiệt, bại vong. Dùng Ngũ tinh (Ngũ tinh: Tức chỉ năm đại hành tinh là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đông phương Tuế tinh (Mộc tinh), Nam phương Huỳnh hoặc (Hỏa tỉnh), Trung ương Trấn tinh (Thổ tinh), Tây phương Thái bạch (Kim tinh), Bắc phương Thần tinh (Thủy tinh)) phối hợp mà sinh ra Cửu tinh, như thế khoảng trời đất mới được tự do vận hành.
Trên đây có nói cách phán đoán dựa vào phép phân bố sao tuy có giá trị, nhưng cũng chỉ là lấy Tam hợp (Tam hợp: Tức chỉ sự hòa hợp của dương khí, âm khí và thiên khí. Ngoài ra theo Âm dương gia cho rằng lấy Thập nhị chi phối hợp với Kim Mộc Thủy Hỏa của Ngũ hành, chọn ra ba cái là sinh, vượng, mộ là hợp cục, gọi là Tam hợp, căn cứ vào đó để lựa chọn giờ tốt ngày đẹp) và Ngũ hành làm căn bản. Nếu linh khí từ trời giáng xuống mà nằm ở ngoại quái tam hợp thì cũng chẳng có quý khí để mà bàn luận.
Cách xác định phân bố sao chính là Thiên quái (Thiên quái: Là một phần trong Tam bàn quái) nếu sự vận hành của Ngũ hành đều nằm trong Thiên quái thì sẽ được giàu sang, phú quý, còn Ngũ hành vận hành ra ngoài Thiên quái sẽ dần dẫn đến suy kiệt, bại vong. Nếu có thể hiểu được đạo lý sinh, vượng, mộ, tuyệt trong Ngũ hành, sau đó phối hợp với bốn phương vị Tham lang, Vũ khúc, Phá quân, Lộc tồn trong Cửu tinh thì sẽ phân biệt được tốt xấu của thủy thần, như thế việc vận dụng sẽ tự nhiên, thoải mái hơn.
Thuận nghịch của phân bố sao
Từ phương hướng của Thiên can gồm Càn, Cấn, Tốn, Khôn có thể dùng Nhâm để thể hiện, mang ý nghĩa dương khí thuận theo hướng vận hành của các sao. Thần vị của Địa chi, Khảm, Chấn, Ly, Đoài có thể dùng Quý để thể hiện, âm khí ở vào vị trí quẻ của nó, do đó phải lựa chọn hướng ngược chiều. Sự khác biệt hai khí âm dương đó là thuộc vào hai hướng, thông qua sự sắp xếp thuận nghịch để phán đoán. Như thế có thể biết được ngọn nguồn của sống, chết, giàu, nghèo, để có cách dạy dỗ đời sau.
Ứng với Càn, Khôn, Cấn, Tốn là Dần, Thân, Tỵ, Hợi có thể lấy Thiên can Nhâm để thể hiện rõ ràng nơi khởi nguồn của dương khí. Ứng với Khảm, Ly, Chấn, Đoài là Tý, Ngọ, Mão, Dậu có thể lấy Thiên can Quý để thể hiện rõ nơi chất chứa khí âm. Biết được việc sống việc chết cũng giống như nhận ra hai khí âm dương thuộc hai loại khác nhau.
Phân bố sao lấy Càn, Khôn, Cấn, Tốn làm dương khí, dựa theo chiều thuận kim đồng hồ để đoán cách vận hành của Ngũ hành; lấy Chấn, Ly, Khảm, Đoài làm âm khí, dựa theo chiều ngược kim đồng hồ để đoán vị trí của Cửu tinh, cho nên mới phân biệt ra âm dương và sự vận hành thuận nghịch. Nếu hiểu được yếu quyết này thì chuyện sinh tử, giàu sang và phú quý đều có thể hiểu được rõ ràng, nên nguyên văn mới nói: Lưu thủ giáo nhi tôn (lưu giữ lại mà dạy cho con cháu).
Huyền không đại quái: Vận dụng thiên, địa, phụ mẫu quái
Coi trọng Tam bàn quái
Tam bàn gồm: Thiên quái, Địa quái, Phụ mẫu quái về khái niệm này rất ít người hiện đại bàn luận. Huyền không đại quái là học vấn chỉ có những bậc siêu phàm kiệt xuất mới thấu hiểu được nó, trong cuốn Thiên ngọc kinh cũng có đề cập đến nhiều nội dung chủ yếu của phái này. Nếu không hiểu rõ những điều cụ thể trong đó thì cũng đừng vội hồ đồ phán quyết. Nếu không tin những điều trong đó nói thì hãy suy xét kỹ lại phần mộ của cổ nhân.
Ứng với Thiên quái chính là Ngũ hành trong phân bố sao, ứng với Địa quái chính là Ngũ hành trong Tam hợp. Xem xét từ quái vị Phụ mẫu chiếu về các hướng Đông Tây Nam Bắc có thể chia thành Tam quái, phân vị trí Phụ mẫu làm hai. Người hiện đại không biết được điểm cốt yếu trong đó mà theo thuyết của các thiền sư chia ra làm Lưỡng quái là Thiên phụ và Địa mẫu, dựa vào Sinh khí, Thiên y, Phúc đức để xác định việc tốt xấu, nhưng họ đâu biết đó chỉ là cách trước mắt, không chính thống. Trong Huyền không đại quái, phần Địa quái sẽ được thêm lên trên phần Thiên quái thế gọi là Huyền không.
Hiện nay chúng ta chưa tìm hiểu rõ nguồn gốc của nó, chỉ mới dùng phần nhỏ của Ngũ hành cách xem hình núi và trừ sát khí để đến mức sinh khí của quẻ bị suy kiệt, Ngũ hành đều phải rời khỏi vị trí vốn có của nó, do đó con cháu đời sau chịu cảnh suy kiệt. Thật đáng tiếc! Chúng ta hiện nay chưa nắm được vai trò của Thiên quái, Địa quái và Phụ mẫu quái là hình thành nên Huyền không đại quái, đó là do các bậc cổ nhân xưa dùng các huyền diệu để xác định tính chân ngụy của nó. Cho nên lại nói, có thể dựa theo những ngôi mộ cổ để tìm hiểu, chính là mượn cách an táng mộ phần của các bậc cổ nhân xưa để chứng minh ý nghĩa sâu xa của nguyên tắc này.
Tránh không bàn về Đông Tây quái
Quái vị của trời đất chia ra ở phương Đông và phương Tây để có thể hiểu được sự uyên áo, vi diệu của con người và để truyền bá rộng rãi nó. Đây là học vấn mật truyền của tiên nhân, không được xem nhẹ mà phải tìm về ngọn nguồn của Ngũ hành để phát hiện ra dấu tích của nó.
Hai quái vị Đông Tây cũng là chỉ Thiên quái và Địa quái. Học vấn này là đạo lý huyền diệu được các tiên nhân truyền thụ, các học giả sau này không được vì thế mà xem nhẹ, khinh thường, không bàn luận về nó. Trước tiên cần tìm hiểu nguồn gốc của Ngũ hành, sau đó mới hiểu được dấu hiệu sự vận hành của Cửu tinh. Ví dụ khi dùng Thiên quái, cần phải dựa trên sự xác định vị trí của thủy thần (Thủy thần: Chỉ dòng nước, ao hồ, sông suối… Đây là một thuật ngữ thường xuất hiện trong các trước tác phong thủy cổ) để đoán định tốt xấu. Nếu dùng Địa quái thì phải kết hợp với hình của long mạch, xem xét sa thủy (Sa thủy Phong thủy học cho rằng cao một tấc là sa, thấp một tấc là thủy, chỉ các gò núi, mô đất… bao quanh huyệt trường) để xác định vị trí của khí tốt, khí xấu. Trong hai quái này nếu chất chứa sự vi diệu, uyên thâm sẽ khiến được giàu sang phú quý, rũ bỏ đói nghèo, chuyện thay đổi dễ như lật bàn tay.
Tìm hiểu về quái vị sản sinh ra Ngũ hành
Con cháu ở vào vị trí có sự giao thoa chia cắt của mười hai phương vị có thể khiến tai ương, họa hoạn liên tiếp kéo đến. Xảy ra đủ loại tai họa, nhưng ít người hiểu được sự uyên áo sâu kín trong đó, chỉ khi sinh khí của long mạch bị kiềm chế, mới đi tìm hiểu mối quan hệ của Thiên can và Địa chi.
Theo thuyết Ngũ hành có thể chia thành mười hai phương vị, sẽ xuất hiện các hiện tượng con cháu và các chi phái giao thoa phức tạp. Do không để ý chuyện tốt xấu và quan hệ qua lại giữa chúng mà sẽ dẫn đến tai họa thường kéo đến nhưng lại không phát hiện ra được, đa phần là do không tìm hiểu kỹ càng về bản thân Ngũ hành được sinh ra từ quái vị nào, cũng không nghiên cứu sâu về mối quan hệ tương sinh, tương khắc giữa con cháu và giữa các tông phái.
Long mạch phải chân thực
Cần phải ghi nhớ cẩn thận bí quyết sắp xếp các phương vị trong Ngũ hành. Nếu việc đoán hình của long mạch không chính xác thì sẽ làm hại rất nhiều người.
Ngũ hành chia ra Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cùng với Huyền không Đại quái, Thiên quái và Địa quái, trừ phương Thổ hợp lại gọi là Tứ kinh Ngũ hành. Học giả đời sau không thể không rõ điều này. Nếu hướng của long mạch không rõ ràng sẽ khiến mạch khí trong Ngũ hành mất đi vị trí chủ đạo, làm cho họa phúc, tốt xấu lẫn lộn, điều này có thể gây họa hại đến không ít người.