Quái vị và cách sắp xếp quái vị theo thế nước
Việc xác định một vị trí trong hàng trăm ngàn phương vị đều thuận theo một lẽ, nhưng tiền đề quan trọng là không được chọn sai vị trí của sao. Vị trí của long phải phù hợp với phương vị, phương vị phải phù hợp với thế nước, thế nước phải phù hợp với vị trí của tứ cát.
Việc xác định một vị trí trong hàng trăm ngàn phương vị đều thuận theo một lẽ, nhưng tiền đề quan trọng là không được chọn sai vị trí của sao. Vị trí của long phải phù hợp với phương vị, phương vị phải phù hợp với thế nước, thế nước phải phù hợp với vị trí của tứ cát. Trong bài viết dưới đây hãy cùng phongthuy tìm hiểu về cách sắp xếp quái dựa theo thế nước nhé!
Quan niệm mê tín thời xưa cho rằng những người làm quan là cao quý do đó ứng với Thiên tinh do đó gọi là quan tinh. Quan tinh có thể hiểu là cao quý, thanh cao), với lộc vị, với mã vị thì con đường làm quan của gia chủ sẽ rộng mở. Nếu nó ứng với điểm lành hoặc điềm dữ thì có thể căn cứ vào cách nhất định để tránh Á điềm dữ mà nhận điềm lành. Cần phải xác định vị thần nào đang tại vị ở ngôi Thái Tuế tất sẽ phân biệt rõ ràng được. Con đường vận số thành công hay thất bại có mối quan hệ mật thiết với cung vị, năm xuất hiện. Tam hợp (Tam hợp: Các nhà âm dương gia cho rằng đem Thập nhị chi phối hợp với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa của Ngũ hành sẽ dẫn đến ba thứ hợp cục là Sinh, Vượng. Mộ, nên gọi là Tam hợp, dựa vào đó để chọn giờ t ngày lành) đủ để ứng nghiệm điều đó.
Về quái vị Phụ mẫu, có trăm ngàn cách để sắp xếp thứ tự con cháu nhưng muốn phân biệt rõ ràng cần dựa chính vào Ngũ hành và Cửu tinh, nếu không có thể dẫn đến việc nhận nhầm các nhánh mạch. Vị trí của long mạch phải phù hợp với vị trí của quái vị Phụ mẫu sẽ được điểm tốt lành, may mắn, cũng như biết được sự phân định giới thuộc của nó, theo đó sẽ xác định được phương vị tốt. Hướng đó phải tương đồng với hướng của dòng nước chảy qua gia chủ, hướng của dòng nước phải phù hợp với phương vị của bốn sao tốt đó là Tham lang, Cự môn, Vũ khúc, Tả phù hoặc có sự gắn kết chặt với quan tỉnh như Lộc mã, Tồn nguyên. Từ phương vị của bản quái mà xét có thể phán đoán ra cung vị Lâm quan của Đế vượng (Đế vượng và Lâm quan là hai trong Trường sinh Thập nhị thần đó là: Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Trong đó Lâm quan là giai đoạn thứ 4 của đời người, sau khi thành niên, chúng ta bước vào đời, phục vụ xã hội. Thời xưa, các bậc cổ nhân lựa chọn con đường hoạn lộ là đường đời của mình cho nên gọi là “Lâm quan”. Đế vượng là giai đoạn thứ 5 trong đời người, đây là giai đoạn con người có năng lượng sung mãn nhất), thấy hướng dòng nước, thấy hướng núi cao sẽ tất lộ rõ sự giàu sang phú quý. Nếu phải đoán định chuyện tốt xấu thì ở vào lúc sao Thái Tuế giáng xuống là thời điểm nảy sinh phúc họa. Nếu gặp phải thời điểm hòa hợp của Thiên, Địa, Huyền không thì nên căn cứ vào cung vị để phán đoán chuyện tốt xấu. Chuyện thành bại, tốt xấu dựa trên các phương vị như Thân, Ngọ, Tuất, Khôn, Tân, Nhâm phải căn cứ trên hướng của quái vị Phụ Mẫu mà phân biệt rõ ràng.
Quái vị của hình núi
Khi sắp xếp thứ tự các sao cần nắm chắc thuộc tỉnh Ngũ hành, xem các vấn đề phát sinh từ quái vị nào. Nếu không biết hướng Bát quái của hình núi sẽ chẳng có cách nào sắp xếp được Cửu tinh. Quy luật thuận nghịch trong đó không giống nhau mà Thiên quái cũng đã bao hàm trong Huyền không.
Bàn về quái vị phân bố sao. Phương pháp phân bố sao thông qua việc xem xét vị trí của tọa hướng của cách cục để xác định Cửu tinh, chuyện tốt xấu, phương vị của thủy thần, nhưng trước tiên phải xác định nguồn gốc Kim, Mộc, Thủy, Hỏa trong Ngũ hành vốn thuộc quái nào trong quái vị Phụ mẫu mới có thể giúp ích cho việc phán đoán chính xác. Nếu không nắm được nguồn gốc của nó thì Bát quái và Cửu tinh cũng đều trở thành những thứ vô nghĩa mà chẳng thể nào ứng nghiệm được. Thiên quái ở trong Huyền không, phân bố sao cũng chính là Thiên quái, thuộc tính âm dương của việc phân bố sao có sự khác nhau mà thứ tự sắp xếp cũng không giống nhau, tuy nhiên đều lấy Đại huyền không làm gốc nên nguyên văn mới nói là “tại Huyền không”.
Ngô Công nói: “Hầu hết các phương vị đều hợp với Thiên quái cũng tác là dòng nước nhập vào vị trí của sơn khố, sự tác động qua lại trong chóng. mắt. Nếu phương vị này mà hợp với Huyền không thì đa phần ở vào vị trí dòng nước sẽ xuất hiện sao Cự môn, sự tác động qua lại giữa chúng tất và trở nên chậm chạp. Do đó cần phải căn cứ vào bố cục tổng thể của Thiên quái mới có thể thu được hiệu quả rõ ràng, nếu không việc phán đoán các cung vị tất sẽ có sai sót, khiến vận mệnh năm đó sẽ bất lợi. Lấy Đại Huyền vị của Tam hợp. Cách này là do người xưa khẩu truyền, không đủ để làm không quái làm gốc để phán đoán âm dương sẽ không phù hợp với phương căn cứ. Giả như Tý sơn Ngọ hướng, ở trong Đại Huyền không quân thì thuộc âm Mộc, từ vị trí Mùi hướng lên sao Phá quân. Người đời nay tách Thiên quái và Huyền không quái ra để bàn nên trở thành khó hiểu.
Từ dương tiến hành tính toán thông qua vị trí của các sao sẽ dễ được giàu sang phú quý. Bốn cung là Thai, Mộc, Dưỡng, Sinh thường cùng vị trí với sao Tham lang, còn bốn cung là Quan, Lâm, Suy, Vượng thường ở vị trí của trọng tử (người con trai thứ hai). Nếu trọng tử (người con trai thứ hai) được xếp ở vị trí Bệnh, Tử thì cũng như là xếp ở vị trí Mộ, Tuyệt. Nếu sau khi xác định phương hướng, âm dương có thể thuận theo dòng chảy của nước mà thay đổi thì ba người con trai đều được phú quý.
Nối tiếp đoạn trên mà nói thì Ngũ hành của Thiên quái dùng công giàu sang phú quý đều được ẩn trong đó. Nếu dùng Thiên quái để xác. vị của Cửu tinh, đầu tiên quan sát vị trí có hướng nước tốt chảy thuận, định chiều thuận nghịch của âm dương, dòng nước sẽ mang sinh khí và vượng khí chảy đến mà đẩy sự suy bại bệnh tật đi xa, rồi tiến dẫn đến vị trí Mộ thì cung vị chủ sẽ nảy sinh hung khí, nhưng ba người con vẫn được phúc lành.
Công vị trong khúc thủy
(Công vị: Là chỉ quan vị: Khúc thủy: Là chỉ chỗ cong của dòng nước, của sông (kênh, mương). Phong tục thời cổ, ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm tổ chức yến tiệc ở bến sông, có người cho rằng việc này để cầu phúc lành, trừ tai họa. Người đời sau nhân ngày này để khơi nước quanh khúc cong để tạo thành kênh sau đó cùng nhau uống rượu vui vẻ, do đó gọi là khúc thủy).
Sáu phương Tý, Dần, Thìn, Càn, Bính, Ất là vị trí của người con trai trưởng. Sáu phương Ngọ, Thân, Tuất, Khôn, Nhâm, Tân là vị trí của con trai thứ hai. Sáu phương Mão, Tỵ, Sửu, Cán, Canh, Đinh là vị trí của con trai thứ hai. Sáu phương Dậu, Hợi, Mùi, Tốn, Quý, Giáp là vị trí của con trai thứ tư.
Vậy thế nào là công vị trong khúc thủy? Về ý nghĩa của công vị có thể tham khảo ở trên. Lấy bốn người con trai kết hợp với Mạnh, Trọng, Thúc, Quý, nếu nơi khúc cong của dòng nước nằm ở các phương vị Tý, Dần, Thìn, Càn, Bính, Ất gọi là Nhất long, ứng với thành viên trong gia đình là trưởng nam. Ngọ, Thân, Tuất, Khôn, Nhâm, Tân gọi là Nhị long, ứng với thành viên trong gia đình là con trai thứ hai. Mão, Tỵ, Sửu, Cán, Canh, Đinh gọi là Tam long, ứng với thành viên trong gia đình là người con trai thứ ba. Dậu, Hợi, Mùi, Tốn, Quý, Giáp gọi là Tứ long, ứng với thành viên trong gia đình là con trai thứ tư. Bốn vị trí này là cách mà cổ nhân đoán biết vị trí của bốn long căn cứ trên khúc cong của dòng nước. Nếu vị trí điểm gấp khúc của dòng nước ở vào Thiên can thần vị thì sẽ được giàu sang phú quý. Nếu vị trí điểm gấp khúc của dòng nước ở vào Địa chỉ thần vị thì tai họa sẽ dần dần giáng xuống.
Ngoài ra cần phải tiến hành khảo sát Thiên quái và Địa quái, dùng phương vị của Ngũ hành để xác định vị trí của Cửu tinh. Thông qua mối quan hệ giữa chúng có thể xác định được vị trí của bốn long, như thế gọi là Tứ kinh Ngũ hành. Đó cũng là nguồn gốc Tam hợp trong phân bố sao, công dụng của nó hầu hết cũng đều được thể hiện trong đó. Hơn nữa không chỉ giới hạn như vậy, từ công vị còn phát triển ra nhiều vấn đề khác, xem phần nội dung phần Thiên ngọc kinh. Nội truyện hạ.
Quan hệ giữa Tam hợp và Địa quái
Từ ngoài ngàn dặm mà xem hình của long mạch cần phải biết được . ngọn nguồn của nó. Nếu dòng nước từ hướng Thần vị Địa chỉ chảy đến tất sẽ mang theo khí xấu, chỉ có dòng nước từ bốn vị trí Dần, Thân, Tỵ, Hợi chảy đến mới thu được điểm lành, khí tốt.
Nếu phía cuối dòng nước xuất hiện vị trí của Thần vị Địa chi sẽ sản sinh ra hung sát, điểm xấu, chỉ có xuất hiện ở các hướng Dần, Thân, Tỵ Hợi mới khiến Ngũ hành hòa hợp, sinh ra khí tốt đẹp, điểm lành. Nói xa chảy tới chắc chắn sẽ được phú quý, phúc đức.
Dương long suy chuyển thuận và âm long suy chuyển ngược
Các phương vị Giáp, Canh, Bính, Nhâm thuộc dương, phải dựa theo hướng thuận mới có thể biết được sự quy thuộc Ngũ hành của nó. Ất Tân, Đinh, Quý thuộc âm cần phải dựa theo hướng ngược nó mới phán đoán được Ngũ hành. Sự thuận nghịch âm dương không giống nhau, cần phải căn cứ vào trường hợp cụ thể để phân biệt. Vị trí của Cửu tinh cũng có sự thuận nghịch, cũng như sống mái cũng có điểm khác biệt, muốn xác định được đều cần có mẹo.
Về quan hệ giữa Tam hợp và Địa quái, Giáp, Canh, Bính, Nhâm thuộc dương, phải dựa theo hướng thuận. Ất, Tân, Đinh, Quý thuộc âm, phải dựa theo hướng ngược. Do đó nó không cùng một con đường. Trong Cửu tinh cũng có thuận và nghịch, sống và mái cũng có sự khác biệt Huyền quan là chỉ dương khí xoay về phía trái, âm khí xoay về phía phải, cho nên gọi là Lưỡng quan. Ví dụ, ở vị trí giao nhau của Ất, Bính và Tuất, Tân, Nhâm sẽ phá vỡ Huyền quan, càng khiến cách cục hoàn thiện hơn.
Dựa vào dòng nước để thấy tác dụng của Đông Tây quái
Đông quái và Tây quái thể hiện rõ tác dụng đặc biệt, tất phải dựa hướng của dòng nước. Nếu hướng của dòng nước ở vào quái vị thuận số khiến gia tộc đời đời phú quý.
Tác dụng của hai quái vị Thiên địa và Đông Tây phải kết hợp với quái vị Phụ mẫu ở vào phương vị vượng khí của Quan tỉnh, hướng của dòng nước chạy theo hướng của Tứ duy (Tứ duy: Trong Bát quái phong thủy chia ra Tứ duy và Tứ ngung. Trong đó Càn, Khôn, Tốn. Cấn là Duy, Đoài, Ly, Chấn, Khảm là Ngung. Duy chia ra các hướng: Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam; Đông Bắc, còn Ngung chia ra các hướng: Tây, Nam, Đông, Bắc), mới có thể khiến đời sau trường tồn.
Quẻ xuất hiện ở dòng nước có điểm xấu
Vị trí nơi dòng nước phát sinh quái vị thì chẳng thể có sự bảo hộ an toàn. Nếu nó gần kể qua lại với vị trí của bốn long sẽ khiến gia tộc được tước vị mà đời đời được hưởng bổng lộc. Ở vị trí khúc cong thứ nhất của dòng nước là đại diện cho một đời được hưởng bổng lộc, vị trí khúc cong thứ hai của dòng nước đại diện cho hai đời được hưởng bổng lộc, vị trí khúc cong thứ ba của dòng nước, nếu nó phối hòa hợp với quái vị Phụ mẫu thì tiêu biểu cho sự giàu sang phú quý mãi mãi. Vị trí nơi dòng nước phát sinh quái vị mà xuất hiện những chỗ đứt gãy tách rời hẳn nhau sẽ khiến tiêu quan mất chức. Nếu hình núi thế nước bằng phẳng, thẳng tắp, không có đoạn nào cong queo, sẽ khiến gia chủ đạt được chức quan nhỏ.
Dòng nước không hợp với vị trí quẻ Ly mà hợp với vị trí của bốn long, hướng của những đoạn gấp khúc lại hướng vào vị trí của Phụ mẫu bản quái như thế có thể đời đời làm quan. Cái gọi là xuất hiện bản quái nơi đầu nguồn của dòng nước, ấy là nói dòng nước từ vị trí Quan, Vượng của bản quái lập tức chảy đến vùng ngoại quái, như thế chỉ được một đời phú quý. Nếu dòng nước chảy thẳng tắp theo hướng của bản quái mà không chảy vòng quanh quái vị Phụ mẫu thì cũng chỉ làm tới chức quan nhỏ bằng con đường bất chính.